KỸ THUẬT TRÔNG ĐẬU COVE Tên khoa học: Phaseolis vulgaris L. Họ Đậu: Leguminosae, Fabaceae ThS. Trần Thị Ba Bộ môn Khoa Học ...
Tên khoa học: Phaseolis vulgaris L.
Họ Đậu: Leguminosae, Fabaceae
ThS. Trần Thị Ba
Bộ môn Khoa Học Cây Trồng
Khoa Nông Nghiệp & Sinh học ứng dụng, Trường ĐHCT
Bộ môn Khoa Học Cây Trồng
Khoa Nông Nghiệp & Sinh học ứng dụng, Trường ĐHCT
1. GIỚI THIỆU
Đậu cove có nguồn gốc từ Trung Mỹ và được trồng cách nay hơn 600
năm. Trái non chứa khoảng 2,5% đạm, 0,2% chất béo, 7% chất đường bột và đặc
biệt nhiều vitamin A và C và chất khoáng, trái có thể dùng ăn tươi, đóng hộp và
đông lạnh. Ở các nước Châu Á như Ân Độ, Miến Điện, Nepal, Sri-Lanka, Bangladesh
hột đậu cove khô được sử dụng trong các bữa ăn kiêng. Đậu cove là một trong
những loại hoa màu thích nghi trong hệ thống luân canh với lúa và là loại đậu
rau quan trọng bậc nhất vì phân bố rộng khắp, sản lượng tương đối lớn và có khả
năng là nguồn thu nhập khá cao cho các nông hộ.
2. ĐẶC TÍNH SINH HỌC
Đậu cove là cây hằng niên, thân thảo, rễ chính mọc sâu nên cây
có khả năng chịu hạn tốt, rễ phụ có nhiều nốt sần chủ yếu tập trung ở độ sâu
khoảng 20 cm. Thân có 2 dạng: thân sinh trưởng hữu hạn và vô hạn. Lá kép có 3
lá phụ với cuốn dài, mặt lá rất ít lông tơ. Chùm hoa mọc ở nách lá trung bình
có từ 2 - 8 hoa.
Sau khi trồng 35 - 40 ngày đã có hoa nở, hoa lưỡng tính tự thụ
phấn khoảng 95% nên việc để giống rất dễ dàng. Trái đậu ăn tươi thu hoạch từ 10
- 13 ngày sau khi hoa nở. Hột đậu to, trọng lượng 1.000 hột 250 - 450g.
Đậu cove là cây trồng chịu ấm nên canh tác được trong điều kiện
ấm áp của vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, đậu không chịu được giá rét.
3. GIỐNG
Phân biệt theo dạng hình của cây có 2 loại:
* Đậu cove lùn (sinh trưởng hữu hạn): Nhóm nầy không có giống địa phương, các
giống nhập nội của Nhật và Đài Loan thích hợp trồng quanh năm ở vùng cao, giống
chịu nóng trồng được vụ Đông Xuân ở vùng đồng bằng. Giống đậu lùn rất thuận lợi
cho việc canh tác ở vùng có gió mạnh, dễ trồng xen với hoa màu khác để tăng thu
hoạch trên diện tích hoặc trồng ở những nơi khó khăn về cây làm giàn. Các giống
nhập nội của Nhật tỏ ra thích hợp nên được các công ty giống chọn lọc, nhân
giống và phổ biến rộng rãi. Đặc tính chung của các giống đậu cove lùn là thấp
cây 50 - 60 cm, cho thu hoạch sớm 40 - 50 NSKG, thời gian thu hoạch 30 - 45
ngày, trái dài, thẳng, màu xanh trung bình đến xanh đậm. Các giống trồng hiện
nay ở vùng cao cho năng suất và phẩm chất không thua kém đậu leo, 18 - 22
tấn/ha.
* Đậu cove leo (sinh trưởng vô hạn): thân dài 2,5 - 3 m, trong canh tác phải
làm giàn. Các giống hiện đang được ưa chuộng:
- Giống đậu cove Đài Loan hạt đen do công ty Giống cây Trồng
Miền Nam chọn lọc và sản xuất. Giống chịu nóng giỏi, kháng bệnh tốt, trồng được
ở đồng bằng cũng như vùng cao, bắt đầu cho thu hoạch trái 50 - 55 ngày sau khi
trồng; phát hoa dài, nhiều hoa, đậu trái tốt nên cho nhiều trái. Trái thẳng,
dài 16 - 17 cm, màu xanh nhạt, phẩm chất ngon, phù hợp với thị hiếu.
- Giống cove Thái (Chiatai) cho trái màu xanh trung bình, dài 14
- 16 cm, chất lượng trái ngon ngọt, có thể trồng quanh năm.
- Giống cove Nhật (Takii): hạt nâu vàng, hoa trắng, trái dài,
màu xanh nhạt, phẩm chất ngon, rất được ưa chuộng, thích hợp vụ Đông-Xuân.
Các giống kể trên đều là giống trái tròn.
4. KỸ THUẬT CANH TÁC
4.1. Thời vụ
Vùng ĐBSCL có thể trồng đậu cove quanh năm trên đất rẩy, nhưng
vụ chính là vụ Đông xuân gieo vào tháng 11 - 12 dl, lúc nầy thời tiết mát mẽ
khô ráo nên hoa trái phát triển thuận lợi, cho năng suất cao nhất. Vụ Hè-Thu
nên gieo sớm vào đầu mùa mưa khoảng tháng 5 dl, vì gieo càng trễ mưa nhiều bệnh
càng phát triển nên năng suất thấp.
4.2. Làm đất, gieo hạt
Chọn đất cao, thoát nước tốt, cày bừa kỹ và làm sạch cỏ; những
nơi đất thấp hay trồng mùa mưa phải lên líp cao để dễ thoát nước. Nên trồng
hàng đơn trên líp, hàng cách hàng 1,2 - 1,4 m. Trồng hàng đơn đậu cho thời gian
thu hoạch trái kéo dài hơn so với trồng hàng đôi và dễ dàng chăm sóc, khoảng
cách lổ trên hàng 20 -25 cm, mỗi lổ để 2 - 3 cây. Mật độ trồng 70.000- 120.000
cây/ha. Lượng hạt giống gieo 40 - 60 kg/ha, khi gieo dùng chày tỉa xôm lổ hoặc
cuốc bổ hốc, gieo xong lấp hột bằng tro trấu. Trồng đậu cove nhất là trong mùa
mưa có thể phủ đất bằng màng phủ plastic để cây ít bị bệnh và cho năng suất
cao.
4.3. Chăm sóc
4.3.1. Bón phân
Công thức phân thường dùng cho đậu cove là:
N: 120 - 200 kg/ha
P2 O5: 100 - 150 kg/ha
K2O : 80 - 100 kg /ha
Dựa vào công thức trên có thể bón cho 1 ha đậu 800 - 1.000 kg
phân 16-16-8 hay 200 kg Urê, 300 kg DAP và 150 kg KCl, 20-25 tấn phân chuồng và
1-2 tấn tro trấu.
Sau đây là một ví dụ về thời điểm, loại phân và liều lượng bón
cho 1 ha:
Loại phân
|
Tổng số
|
Bón lót
|
Tưới dậm (5-10 NSG)
|
Bón thúc (20-25 NSG)
|
Bón nuôi trái (45 -
55 NSG)
|
Vôi (tấn)
|
1
|
1
|
|||
Phân
chuồng (tấn)
|
20
|
20
|
|||
16-16-8 (kg)
|
500
|
300
|
200
|
||
Urê (kg)
|
100
|
20
|
80
|
||
DAP (kg)
|
100
|
30
|
70
|
||
KCl (kg)
|
100
|
50
|
50
|
4.3.2. Tưới nước: tưới bằng thùng vòi búp sen, mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng và
buổi chiều. Tưới nhiều lúc ra hoa trái rộ. Nếu điều kiện đất và nước cho phép,
nên dùng phương pháp tưới thấm vì lúc nầy cây phát triển tối đa, bộ lá lớn,
phiến lá to, cây yêu cầu nhiều nước. Thiếu nước cây phát triển kém, trái nhỏ,
mau già nhiều xơ, giảm năng suất và phẩm chất trái tươi.
4.3.3. Làm giàn: khi cây bỏ vòi thì bắt đầu làm giàn. Cây giàn dài 2,5-3m, có
thể dùng sậy già để cắm giàn, thân đậu bò dài hơn 3 m. Một số nơi nông dân dùng
sóng lá dừa để làm giàn, cắm giàn theo hình chữ X, phần chót lá cột dính nhau.
Giàn nầy có thể sử dụng được 2 - 3 mùa, số lượng cây làm giàn từ 40.000 -
50.000 cây/ha. Giàn lưới đang được ưa chộng thay thế cho giàn le, sậy.



Giàn chữ nhân (X); giàn lưới
4.3.5. Phòng trừ sâu bệnh:
Sâu hại quan trọng có:
- Dòi đục thân (Ophiomyia
phaseoli): Loài này gây hại đáng kể lúc cây còn nhỏ có 3 - 4 lá và lúc ra
hoa. Thành trùng là ruồi có màu đen bóng, kích thước rất nhỏ, dài 2 - 3 mm,
thường xuất hiện vào sáng sớm hay lúc trời mát; đẻ trứng vào mô lá non mặt trên
lá. Âu trùng là dòi có màu trắng ngà, đục bên trong gân, qua cuống lá và đi dần
xuống thân ở nơi tiếp giáp giữa lớp võ và phần gỗ làm lớp võ thân bị nứt. Nhộng
có màu vàng nâu nằm ngay lớp võ thân gần mặt đất. Dòi gây hại nặng vào giai
đoạn cây con, làm cây dễ bị chết héo, hoặc gây chết nhánh.
Tránh trồng gối vụ liên tục, cần theo dõi mật số thường xuyên,
có thể phòng ngừa bằng cách rãi thuốc hạt lúc gieo theo khuyến cáo. Có thể phun
ngừa bằng các dạng thuốc nước trước giai đoạn ra hoa.
- Sâu đục trái (Maruca
testulalis): Bướm có màu nâu đậm, giữa cánh trước có một vệt màu trắng;
cánh sau màu trắng bóng có bìa nâu đen, thân dài 10 - 13 mm. Ấu trùng màu trắng
hơi nâu, trên lưng mỗi đốt có sáu đốm vuông cạnh hay bầu dục màu nâu đậm. Trứng
được đẻ trên hoa, đài và trái non. Sâu non kết hoa lại, ăn phá bên trong hoặc
đục vào bên trong trái non, chất phân thãi làm trái bị dơ, dễ rụng. Do sâu nằm
sâu trong trái nên khó phòng trị. Nhộng nằm trong các kẹt lá khô. Loài này xuất
hiện nhiều trong mùa mưa.
Nên trồng sớm, không nên xen canh với các cây họ đậu. Xịt các
loại thuốc gốc cúc có tính phân hủy nhanh trước khi ra hoa và lúc tăng trưởng
trái như Cyperan, Cyper, Peran, Agroperin, Tigifast. Để bảo đảm an toàn cho
người tiêu dùng, nên ngưng xịt thuốc vài ngày trước khi thu họach.
Bệnh quan trọng gồm có:
Bệnh chết héo cây con do
nấm Rhizoctonia solani: Bệnh chủ yếu gây hại ở giai đoạn cây con, làm gốc thân tóp
lại, cây dễ chết.
Phòng trị như bệnh chết héo cây con ở dưa leo.
- Bệnh đốm vi khuẩn do Xanthomonas phaseoli: Bệnh gây ra
các đốm cháy rộng trên lá. Trên trái đậu có những đốm nhỏ xanh nhạt, nhũn nước;
sau đó trở nên nâu và khô đi, hình dạng bất thường. Trong điều kiện ẩm độ cao,
đốm bệnh lây lan rất nhanh.
Vệ sinh đồng ruộng, thu gom các lá trái sau khi thu họach. Phun
ngừa bằng các dung dịch Champion, Coc, Copper zinc, Kasumin, New Kasuran,
Canthomil.
- Bệnh đốm lá do nấm Cercospora
canescens và Cercospora cruenta: Đốm bệnh gây hại bởi C.
canescens có dạng tròn đến hơi có góc cạnh với tâm màu nâu, viền xung quanh
màu nâu đỏ trên lá; bệnh gây hại nhiều trên đậu Lima và đậu đũa hơn đậu côve.
Đốm bệnh do C. cruenta gây có màu nâu đến màu rỉ sét, hình dạng và kích
thước không đều; thường xuất hiện trên thân hoặc trái chín. Phun ngừa bằng các
loại thuốc trừ nấm thông thường
- Bệnh phấn trắng do nấm Erysiphe poligoli: Vết bệnh xuất
hiện đầu tiên là những đốm mất màu xanh, dần dần biến thành trắng xám. Các lá
non bị bệnh sẽ cuốn lại, chuyển sang vàng và rụng đi, trái nhỏ, cây còi cọc.
Bệnh thường phát triển vào giai đoạn cuối thu hoạch.
Phun ngừa bằng Curzate-M8, Mancolaxyl, Ricozeb, Vimonyl, Score,
Metaxyl.
5. THU HOẠCH
Sau khi trồng 50 - 55 ngày bắt đầu thu hoạch, lứa đầu trái nhỏ
và ít chỉ khoảng 50 - 60 kg/ha, lứa 4-5 thu rộ, thường cách 1 ngày thu 1 lần.
Sau đó cách 2-3 ngày thu 1 lần có thể thu 10 - 12 lứa tùy theo cách chăm sóc.
Năng suất đậu trong mùa mưa là 12 - 15 tấn/ha, vụ Đông-Xuân năng suất 20 - 22
tấn /ha. Nên thu đúng lúc khi vỏ trái có màu xanh mượt và hột mới tượng, nếu để
trái già sẽ cứng, có nhiều xơ, phẩm chất kém.

BÌNH LUẬN